-
Đại
cương
+
Cung Mệnh
có Thái
Âm, miếu,
vượng hay
đắc địa
tọa thủ,
nên thân
hình to
lớn, hơi
cao, da trắng, mặt vuông
vắn, đầy đặn, dương, mắt sáng, rất thông minh, tính khoan hòa, nhân hậu, từ
thiện, ưa thích văn chương,
mỹ thuật,
được hưởng giàu sang và sống
lâu.
+
Nguyệt miếu địa,
vượng địa,
ứng hợp
với Âm Nam, Âm
Nữ.
+ Cung Mệnh có
Nguyệt miếu, vượng địa tọa thủ, mà lại sinh ban đêm, nhất là vào khoảng
từ ngày
10 đến ngày
20, thật là toàn mỹ.
+
Cung
Mệnh
có
Nguyệt
miếu
địa
hay
vượng
địa
mà
lại
sinh
ban
ngày,
nên
kém
sáng
sủa
tốt
đẹp.
+ Nguyệt miếu,
vượng hay đắc địa, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hợp nhất là Xương Khúc,
Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Đào, Hồng, Hỷ, tất được hưởng phú
qúy đến tột bậc và nổi tiếng
là giàu
có.
+
Nguyệt miếu,
vượng địa,
gặp Tuần,
Triệt án
ngữ, nên
suốt đời
lao khổ,
phải lập
nghiệp ở
phương
xa, lại hay
đau yếu
thường có bệnh ở
bộ tiêu hóa, mắt
rất kém, tuổi
thọ cũng bị chiết
giảm.
+
Nguyệt đắc
địa, gặp
Tuần, Triệt
án ngữ,
tuy phải
sớm ly
tổ, đau
mắt, cũng thường
có bệnh
ở bộ tiêu hóa, nhưng
được hưởng phú qúy
và phúc thọ song
toàn.
+ Nguyệt đắc địa,
nếu không gặp Tuần, Triệt án ngữ, tuy vô bệnh tật, vẫn có tài lộc, nhưng
không thể
qúy hiển được.
+ Nguyệt miếu,
vượng hay đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh,
Kỵ, Riêu, Hình tất không được hưởng giàu sang trọn vẹn: mắt kém, thường
có bệnh ở bộ tiêu hóa, lại
hay mắc tai nạn, tuổi thọ
cũng bị
chiết giảm.
+ Nguyệt đắc địa
gặp Kỵ đồng cung và không bị Sát tinh xâm phạm, chắc chắn là được
hưởng phú qúy
đến tột bậc và sống lâu.
+ Nguyệt hãm địa
nên thân hình nhỏ, hơi cao, mặt dài kém thông minh, tính ương ngạnh,
thích ngao du chơi bời, ưa ngâm hoa vịnh nguyệt, và không tham cầu danh
lợi: suốt đời chẳng mấy khi được xứng
ý toại lòng, rất vất vả, thường phải ly tổ bôn ba, lại hay đau yếu, mắt kém, khó
tránh thoát
được tai nạn nếu trong mình
không có kỳ
tật, tất không thể
sống lâu
được.
+ Nguyệt hãm địa
Mão Tỵ (Âm cung) cũng không đến nỗi mờ ám xấu xa lắm, nên không
nên vẫn được no cơm ấm
áo, và chẳng đáng
lo ngại nhiều về sự
chẳng lành
xảy đến trong
đời.
+
Nguyệt hãm
địa gặp
nhiều sao
mờ ám
xấu xa
hội hợp,
nhất là
Sát tinh,
Riêu, Kỵ
thật là
suốt đời cùng khổ cô đơn, phải
lang thang phiêu bạt, hay đau yếu,
thường có bệnh ở bộ tiêu hóa, mắt rất
kém, nếu trong mình có bệnh tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn là mù
lòa. Không những
thế, lại còn hay mắc những
tai họa khủng khiếp, và dĩ
nhiên là yểu tử.
+ Nguyệt hãm địa
gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt,
Tả, Hữu, Khoa, Quyền,
Lộc, Đào, Hồng,
Hỷ tất được
có danh tài và được tăng
thêm tuổi thọ.
+
Nguyệt hãm
địa gặp
Tuần, Triệt
án ngữ,
lại thành
tốt đẹp,
tuy vẫn
phải ly
tổ lập
nghiệp ở
phương
xa, nhưng được
hưởng giàu sang,
khỏe mạnh và sống
lâu.
+ Nguyệt dù miếu,
vượng, đắc hay hãm địa gặp Hình đồng cung, tất mắt có tật, mắt thường
bị vật kim khí sắc nhọn chạm
phải mà có thương tích.
-
Nam
mệnh
+ Nguyệt miếu,
vượng hay đắc địa (gặp Tuần, Triệt án ngữ) thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng
sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng
phú qúy đến tột bậc, có uy
quyền hiển hách và sống
lâu.
+ Nguyệt hãm địa
gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là suốt đời cùng khổ cô đơn,
lang thang phiêu bạt, hay đau
yếu, thường có bệnh ở bộ tiêu hóa, mắt rất kém, nếu trong mình
không có tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn là mù lòa. Không
những thế, lại còn hay mắc những
tai họa khủng khiếp và dĩ
nhiên là yểu tử.
+
Cung Thân có Nguyệt
tọa thủ, là người nể vợ hay
sợ vợ.
-
Nữ
mệnh
+ Nguyệt miếu,
vượng hay đắc địa thủ Mệnh, là người có nhan sắc, có đức độ, lại có tài giỏi
đảm đang,
vượng phu
ích tử,
được hưởng
giàu sang
và sống
lâu. Nếu
Nguyệt gặp
nhiều sao
sáng sủa
tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng
phú qúy đến tột bậc và phúc
thọ song toàn.
+ Nguyệt miếu,
vượng địa hay gặp Tuần, Triệt án ngữ, hay Nguyệt hãm địa, tất phải muộn
lập gia đình, hay
lấy kế lấy
lẽ mới tránh
được những
nỗi ưu phiền, đau đớn
vì chồng con.
+ Nguyệt hãm địa là
người dâm dật, suốt đời vất vả, có nhiều tật bệnh. Nếu Nguyệt gặp
nhiều sao
mờ ám
xấu xa
hội hợp,
thật là
chung thân
cùng khốn
cô đơn,
phải lang
thang phiêu
bạt, lại hay đau yếu thường
có bệnh hoặc ở bộ tiêu hóa, hoặc ở tử cung, mắt kém, nếu trong mình không
có tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn là mù lòa. Không những
thế, lại còn hay mắc những tai
họa khủng khiếp, và dĩ nhiên
là yểu tử.
-
Phú
giải
Nguyệt
lãng Thiên
môn ư Hợi địa
đăng vân
chấp chưởng
đại quyền
Cung Mệnh an tại
Hợi, có Nguyệt tọa thủ, nên rượu rực rỡ tốt đẹp, ví như mặt trăng sáng
vằng vặc giữa trời. Có cách này, chắc chắn là được hưởng phú qúy đến tột
bậc, lại nắm giữ quyền hành lớn,
thường đứng ở trên cao mà sai khiến muôn người. (Hợi thuộc quẻ Càn là biểu tượng
của Trời,
nên gọi là Thiên môn).
Thái
Âm
cư
Tý,
hiệu
viết,
thủy
đăng
quế
ngạc,
đắc
thanh
yếu
chi
chức,
trung
gián
chi
tài.
Cung Mệnh an tại
Tý, có Nguyệt tọa thủ, nên rất sáng
sủa tốt đẹp, ví như giọt nước đọng
trên cành quế. Có cách
này, rất qúy
hiển, không những
thế, lại có tài can
gián được người trên.
Thái
Âm cư Tý,
Bính, Đinh phú
qúy trung lương
Cung
Mệnh
an
tại
Tý,
có
Nguyệt
tọa
thủ,
tất
được
hưởng
giàu
sang
và
sống
lâu.
Nếu
lại
sinh
năm
Bính
Đinh
là
hợp
cách,
nên
được
hưởng
phú
qúy
đến
tột
bậc,
phúc
thọ
song
toàn
và
là
người
trung
lương.
Nguyệt
diệu Thiên
Lương, nữ dâm
bần
Đàn
bà
mà
cung
Mệnh
có
Nguyệt
hãm
địa
tọa
thủ,
gặp
Lương
chiếu,
là
người
dâm
đãng,
nghèo
hèn.
Thái
Âm, Vũ Khúc, Lộc Tồn
đồng, Tả, Hữu, tương
phùng phú qúy ông
Cung
Mệnh có
Nguyệt miếu,
vượng hay
đắc địa
tọa thủ,
(hay có
Vũ miếu,
vượng hay
đắc địa
tọa thủ) gặp Lộc
đồng cung,
gặp Tả Hữu hội hợp, là
bậc triệu phú.
Thái
Âm, Dương, Đà
tất chủ nhân
ly tài tán.
Cung Mệnh có Nguyệt
miếu, vượng hay đắc địa tọa
thủ, gặp Kình, Đà hội hợp, tất phải ly
tổ, tiền tài bị hao tán. Nếu cung Mệnh có Nguyệt hãm địa tọa thủ, gặp
Kình, Đà hội hợp, thật là suốt đời
cùng khổ, thường
phải lang thang
phiêu bạt và rất nghèo túng.