4.2.8. Thái Âm

-  Đại cương

+ Cung Mệnh Thái Âm, miếu, vượng hay đắc địa tọa thủ, nên thân hình to lớn, hơi cao, da trắng, mặt vuông vắn, đầy đặn, dương, mắt sáng, rất thông minh, tính khoan hòa, nhân hậu, từ thiện, ưa thích văn chương, mỹ thuật, được hưởng giàu sang và sống lâu.

+ Nguyệt miếu địa, vượng địa, ứng hợp với Âm Nam, Âm Nữ.

+ Cung Mệnh có Nguyệt miếu, vượng địa tọa thủ, mà lại sinh ban đêm, nhất là vào khoảng từ ngày 10 đến ngày 20, thật là toàn mỹ.

+ Cung Mệnh Nguyệt miếu địa hay vượng địa lại sinh ban ngày, nên kém sáng sủa tốt đẹp.

+ Nguyệt miếu, vượng hay đắc địa, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hợp nhất là Xương Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Đào, Hồng, Hỷ, tất được hưởng phú qúy đến tột bậc và nổi tiếng giàu có.

+ Nguyệt miếu, vượng địa, gặp Tuần, Triệt án ngữ, nên suốt đời lao khổ, phải lập nghiệp

phương xa, lại hay đau yếu thường có bệnh ở bộ tiêu hóa, mắt rất kém, tuổi thọ cũng bị chiết giảm.

+ Nguyệt đắc địa, gặp Tuần, Triệt án ngữ, tuy phải sớm ly tổ, đau mắt, cũng thường bệnh

ở bộ tiêu hóa, nhưng được hưởng phú qúy và phúc thọ song toàn.

+ Nguyệt đắc địa, nếu không gặp Tuần, Triệt án ngữ, tuy vô bệnh tật, vẫn có tài lộc, nhưng không thể qúy hiển được.

+ Nguyệt miếu, vượng hay đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kỵ, Riêu, Hình tất không được hưởng giàu sang trọn vẹn: mắt kém, thường có bệnh ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn, tuổi thọ cũng bị chiết giảm.

+ Nguyệt đắc địa gặp Kỵ đồng cung và không bị Sát tinh xâm phạm, chắc chắn là được hưởng phú qúy đến tột bậc và sống lâu.

+ Nguyệt hãm địa nên thân hình nhỏ, hơi cao, mặt dài kém thông minh, tính ương ngạnh, thích ngao du chơi bời, ưa ngâm hoa vịnh nguyệt, và không tham cầu danh lợi: suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, rất vất vả, thường phải ly tổ bôn ba, lại hay đau yếu, mắt kém, khó tránh thoát được tai nạn nếu trong mình không có kỳ tật, tất không thể sống lâu được.

+ Nguyệt hãm địa Mão Tỵ (Âm cung) cũng không đến nỗi mờ ám xấu xa lắm, nên không nên vẫn được no cơm ấm áo, và chẳng đáng lo ngại nhiều về sự chẳng lành xảy đến trong đời.

+ Nguyệt hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất Sát tinh, Riêu, Kỵ thật suốt đời cùng khổ cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, hay đau yếu, thường có bệnh ở bộ tiêu hóa, mắt rất kém, nếu trong mình có bệnh tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn là mù lòa. Không những thế, lại còn hay mắc những tai họa khủng khiếp, và dĩ nhiên là yểu tử.

+ Nguyệt hãm địa gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Đào, Hồng, Hỷ tất được có danh tài và được tăng thêm tuổi thọ.

+ Nguyệt hãm địa gặp Tuần, Triệt án ngữ, lại thành tốt đẹp, tuy vẫn phải ly tổ lập nghiệp

phương xa, nhưng được hưởng giàu sang, khỏe mạnh và sống lâu.

+ Nguyệt dù miếu, vượng, đắc hay hãm địa gặp Hình đồng cung, tất mắt có tật, mắt thường bị vật kim khí sắc nhọn chạm phải mà có thương tích.

-  Nam mệnh

+ Nguyệt miếu, vượng hay đắc địa (gặp Tuần, Triệt án ngữ) thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú qúy đến tột bậc, có uy quyền hiển hách và sống lâu.

+ Nguyệt hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là suốt đời cùng khổ cô đơn, lang thang phiêu bạt, hay đau yếu, thường có bệnh ở bộ tiêu hóa, mắt rất kém, nếu trong mình không có tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn là mù lòa. Không những thế, lại còn hay mắc những tai họa khủng khiếp và dĩ nhiên là yểu tử.

+ Cung Thân có Nguyệt tọa thủ, là người nể vợ hay sợ vợ.

-  Nữ mệnh

+ Nguyệt miếu, vượng hay đắc địa thủ Mệnh, là người có nhan sắc, có đức độ, lại có tài giỏi đảm đang, vượng phu ích tử, được hưởng giàu sang sống lâu. Nếu Nguyệt gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú qúy đến tột bậc và phúc thọ song toàn.

+ Nguyệt miếu, vượng địa hay gặp Tuần, Triệt án ngữ, hay Nguyệt hãm địa, tất phải muộn lập gia đình, hay lấy kế lấy lẽ mới tránh được những nỗi ưu phiền, đau đớn vì chồng con.

+ Nguyệt hãm địa là người dâm dật, suốt đời vất vả, có nhiều tật bệnh. Nếu Nguyệt gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật chung thân cùng khốn đơn, phải lang thang phiêu bạt, lại hay đau yếu thường có bệnh hoặc ở bộ tiêu hóa, hoặc ở tử cung, mắt kém, nếu trong mình không có tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn là mù lòa. Không những thế, lại còn hay mắc những tai họa khủng khiếp, và dĩ nhiên là yểu tử.

-  Phú giải

Nguyệt lãng Thiên môn ư Hợi địa đăng vân chấp chưởng đại quyền

Cung Mệnh an tại Hợi, có Nguyệt tọa thủ, nên rượu rực rỡ tốt đẹp, ví như mặt trăng sáng vằng vặc giữa trời. Có cách này, chắc chắn là được hưởng phú qúy đến tột bậc, lại nắm giữ quyền hành lớn, thường đứng ở trên cao mà sai khiến muôn người. (Hợi thuộc quẻ Càn là biểu tượng của Trời, nên gọi là Thiên môn).

Thái Âm Tý, hiệu viết, thủy đăng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài.

Cung Mệnh an tại Tý, có Nguyệt tọa thủ, nên rất sáng sủa tốt đẹp, ví như giọt nước đọng trên cành quế. Có cách này, rất qúy hiển, không những thế, lại có tài can gián được người trên.

Thái Âm cư Tý, Bính, Đinh phú qúy trung lương

Cung Mệnh an tại Tý, Nguyệt tọa thủ, tất được hưởng giàu sang sống lâu. Nếu lại sinh năm  Bính Đinh hợp cách, nên được hưởng phú qúy đến tột bậc, phúc thọ song toàn người trung lương.

Nguyệt diệu Thiên Lương, nữ dâm bần

Đàn cung Mệnh Nguyệt hãm địa tọa thủ, gặp Lương chiếu, người dâm đãng, nghèo hèn.

Thái Âm, Vũ Khúc, Lộc Tồn đồng, Tả, Hữu, tương phùng phú qúy ông

Cung Mệnh Nguyệt miếu, vượng hay đắc địa tọa thủ, (hay miếu, vượng hay đắc địa tọa thủ) gặp Lộc đồng cung, gặp Tả Hữu hội hợp, là bậc triệu phú.

Thái Âm, Dương, Đà tất chủ nhân ly tài tán.

Cung Mệnh có Nguyệt miếu, vượng hay đắc địa tọa thủ, gặp Kình, Đà hội hợp, tất phải ly tổ, tiền tài bị hao tán. Nếu cung Mệnh có Nguyệt hãm địa tọa thủ, gặp Kình, Đà hội hợp, thật là suốt đời cùng khổ, thường phải lang thang phiêu bạt và rất nghèo túng.