-
Bắt
đầu
ghi
số
Cục
ở
cung
an
Mệnh,
đoạn
dương
nam,
âm
nữ
theo
chiều
thuận,
âm
nam,
dương
nữ
theo
chiều
nghịch,
lần
lượt
ghi
số
tiếp
theo,
từ
cung
này
chuyển
sang
cung
khác
phải
cộng
thêm
mười.
Thí
dụ: Dương
nam, Hỏa
lục cục,
bắt đầu
ghi số
6 ở
cung Mệnh,
rồi ghi
số 16
ở
cung
Phụ Mẫu, 26 ở cung Phúc
Đức...
-
Không
ghi
số
Cục
ở
cung
an
Mệnh,
dương
nam,
âm
nữ
theo
chiều
thuận,
ghi
liên
tiếp,
từ
cung
này
chuyển
sang
cung
khách
phải
cộng
theo
mười,
âm
nam,
dương
nữ
theo
chiều
nghịch,
ghi
số
Cục
ở
cung
Huynh
Đệ,
đoạn
ghi
liên
tiếp,
từ
cung
này
chuyển
sang
cung
khác
phải
cộng
thêm
mười.
Thí
dụ: Âm
nam, Thổ
ngũ cục,
bắt đầu
ghi số
5 ở
cung Huynh
đệ, rồi
ghi số
15 ở
cung
Thiên Thiếp,
25 ở cung
Tử Tức...
Đây
là
hai
cách
khởi
đại
hạn.
Nhưng
thường
người
ta
hay
dùng
cách
thứ
nhất
vì
nó
chính
xác
hơn.
Một
cung
đã
được
ghi
đại
hạn,
tức
là
vận
hạn
trong
mười
năm
phải
được
xem
trong
cung
đó.
Thí dụ: Hỏa lục
cục, bắt đầu ghi số 6 ở cung Mệnh. Như vậy trong khoảng từ 6 tuổi
đến 15 tuổi phải xem vận hạn ở cung Mệnh. Đến năm 16 tuổi, đại hạn mới
chuyển sang
cung bên cạnh.
Cung đã ghi đại
hạn, gọi là cung gốc của đại hạn mười năm. Muốn xem vận hạn tường tận
hơn, phải lưu đại hạn hàng năm. Muốn lưu đại hạn, phải xem số ghi ở cung
gốc, rồi chuyển số ghi liên
tiếp sang cung xung chiếu,
đoạn:
-
Dương nam, âm nữ,
lùi lại một cung, rồi trở lại cung xung chiếu, tiến lên theo chiều thuận,
mỗi cung
một năm.
- Âm nam, dương nữ, tiến lên một cung, rồi trở lại cung xung chiếu, lùi xuống chiều nghịch, mỗi cung là một năm.
Thí dụ: Dương nam,
Mộc tam cục, muốn xem Lưu đại hạn năm 27 tuổi, phải tính cẩn
thận trên bản đồ 12 cung như dưới đây. Bắt đầu từ cung gốc của đại hạn từ
23 tuổi đến 32 tuổi, chuyển sang cung
xung chiếu 24, lùi lại một cung là 25, trở lại cung
xung chiếu là 26, tiến lên một cung theo chiều thuận là 26. Vậy lưu đại
hạn năm 27 tuổi
ở cung Hợi.
Sau
khi khởi
đại hạn
lưu đại
hạn, lại
phải tính
lưu niên
tiểu hạn
để xem
vận hạn
từng năm
một. Muốn tính
lưu niên tiểu
hạn, trước hết phải khởi
lưu niên, tùy theo nam
nữ và năm
sinh.
-
Nam
khởi lưu
theo chiều
thuận.
-
Nữ khởi lưu
theo chiều
nghịch. Coi
bảng dưới đây:
Năm
sinh |
Cung
khởi lưu niên |
Năm
sinh |
Cung
khởi lưu niên |
Dân,
Ngọ, Tuất |
Thìn |
Tỵ,
Dậu, Sửu |
Mùi |
Thân,
Tý, Thìn |
Tuất |
Hợi,
Mão, Mùi |
Sửu |
Thí dụ: Con trai sinh năm Tý, vậy phải khởi Tý từ cung
Tuất, ghi chữ Tý bên cung Tuất, rồi
theo chiều thuận, ghi chữ Sửu bên cung Hợi, chữ Dần bên cung Tý, đoạn
lần lượt ghi vào bên những
cung liên tiếp thứ tự
12 Chi.
Tỵ |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Thìn |
Mùi Thân
Dậu
Tuất
Ngọ
Hợi
Tỵ
Tý
Thìn
Mão
Dần
Sửu |
Dậu |
|
Mão |
Tuất |
||
Dần |
Sửu |
Tý |
Hợi |
Thí dụ: Con gái, sinh năm Ngọ, vậy phải khởi Ngọ từ năm
Thìn, ghi chữ Ngọ bên cung Thìn, rồi
theo chiều nghịch, ghi chữ Mùi bên cung Mão, chữ Thân bên cung
Dần, đoạn lần lượt giang
hồ vào bên những cung liên
tiếp thứ tự
12 Chi.
Tỵ |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Thìn |
Tỵ Thìn
Mão
Dần
Ngọ
Sửu
Mùi
Tý
Thân
Dậu
Tuất
Hợi |
Dậu |
|
Mão |
Tuất |
||
Dần |
Sửu |
Tý |
Hợi |
Sau khi tính lưu niên
tiểu hạn, người ta còn có thể tính lưu nguyệt hạn, tức là hạn từng tháng
một. Muốn tính lưu nguyệt hạn,
phải khởi hạn, có ba cách:
-
Bắt đầu từ cung đã ghi
được lưu niên tiểu hạn kể là tháng Giêng, đếm theo chiều nghịch
đến tháng sinh, ngừng lại ở cung nào, kể cung đó là giờ Tý, rồi đếm theo
chiều thuận đến giờ sinh, ngừng lại ở
cung nào, kể cung đó là tháng Giêng, đoạn lần lượt lại theo chiều thuận, đếm
tháng hai, tháng
ba, tháng
tư,... mỗi cung là một tháng.
-
Bắt đầu từ cung đã
ghi lưu niên tiểu hạn kể là tháng Giêng, đếm theo
chiều thuận đến tháng sinh,
ngừng lại ở cung nào, kể cung đó là giờ Tý, rồi đếm theo chiều thuận đến giờ
sinh, ngừng lại ở cung nào, kể cung đó là tháng Giêng, đoạn lần lượt
lại như trên, đếm tháng hai, tháng ba,
tháng tư,... mỗi cung là một
tháng.
-
Bắt
đầu từ
cung đã
ghi lưu
niên tiểu
hạn kể
là tháng
Giêng, rồi
chuyển theo
chiều thuận,
đếm tháng hai, tháng
ba, tháng
tư,... mỗi cung là một tháng.
Trên đây là khởi lưu
nguyệt hạn. Nhưng thường người ta hay dùng cách thứ nhất. Biên giả
mong các vị nghiên
cứu Tử Vi
đẩu số thử nghiệm cả
ba cách
để xem
cách nào chính
xác hơn.
Sau
khi
đã
biết
lưu
nguyệt
hạn
của
tháng
định
xem
ở
cung
nào.
Bắt
đầu
kể
ngay
cung
đó
là
mồng
một,
rồi
lần
lượt
theo
chiều
thuận,
đến
mồng
hai,
mồng
ba,
mồng
bốn,...
mỗi
cung
là
một
ngày.
Sau khi đã biết lưu
nhật hạn của tháng định xem ở cung nào bắt đầu kể ngay cung đó là giờ
Tý, rồi
lần lượt theo
chiều thuận, đếm
Tý, Sửu, Dần, Mão,... mỗi
cung là
một giờ
theo hàng Chi.