-
Gốc
đại hạn
mười năm
-
Lưu
đại hạn
một năm
-
Lưu
niên tiểu
hạn một
năm
-
Sự
tương sinh,
tương khắc
giữa
+
Cung nhập hạn
và Bản
Mệnh.
+ Cung
nhập hạn và Chính diệu nhập hạn (nếu có)
+
Chính diệu nhập hạn và
Bản Mệnh (nếu có)
-
Chính
diệu nhập hạn và
chính tọa thủ Mệnh thuộc cùng
nhóm hay
khác nhóm
-
Sự
tốt xấu
của các sao
hội hợp nhập
hạn
-
Đặc
biệt chú
ý đến
Sát tinh
và Bại
tinh (nếu
có)
-
Quan
sát
vận
hạn,
nếu
thấy
có
nhiều
sự
tương
sinh
là
tốt
đẹp.
Trái
lại,
nhiều
sự
tương khắc
là
xấu
xa.
Thuận
lý:
cung
nhập
hạn
sinh
Chính
diệu
nhập
hạn,
Chính
diệu
nhập
hạn
lại
sinh
Bản
Mệnh.
-
Tại
cung nhập
hạn, trong
số những
sao hội
hợp nếu
quá nửa
tốt đẹp
được coi
ở hạn
tốt.
Trái
lại nếu quá nửa
xấu xa, phải coi
là hạn xấu.
-
Nhận
xét vị trí và
ảnh hưởng
tốt xấu của những
sao lưu động, đặc biệt
chú ý
lưu Thái Tuế.
-
Cân nhắc sự tốt xấu
của đại hạn mười năm, lưu đại hạn một năm, lưu niên tiểu hạn một
năm và
ảnh hưởng của những
sao lưu động.
-
Vận hạn ở cung nào
phải đặc biệt chú ý đến những sự hay dở và những việc xảy ra trong
phạm vi cung
đó.
Thí dụ: Vận hạn ở
cung Quan Lộc, tất trong khoảng mười năm hay một năm (tùy theo đại
hạn mười năm hay lưu niên tiểu hạn một năm) thường có nhiều việc xảy đến,
liên quan tới công danh
sự nghiệp.
-
Kết hợp tính chất
của những sao hội hợp nhập hạn để luận đoán những sự may mắn, tốt
lành hay không tai ương họa hại. Muốn rộng đường luận đoán, đồng thời đi
sâu vào chi tiết của vận hạn, nên
hỏi: “Thức ăn,
thức uống, vật dụng và cơ thể, biểu tượng bằng các sao”. Sự kết hợp này
chỉ nên áp dụng
triệt để và
đặc biệt trong lưu niên
tiểu hạn.
- Luận đoán rất cẩn thận, trước hết là cung Phúc Đức sau đến Mệnh, Thân, để cân nhắc họa phúc. Sự tốt xấu của ba cung này thưởng làm tăng hay giảm những sự đáng mừng hay đáng lo trong vận hạn.