PHẦN 3 - LUẬN ĐOÁN VẬN HẠN

1.  PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐOÁN VẬN HẠN

1.1   Quan sát

-  Gốc đại hạn mười năm

-   Lưu đại hạn một năm

-   Lưu niên tiểu hạn một năm

-  Sự tương sinh, tương khắc giữa

+ Cung nhập hạn Bản Mệnh.

+ Cung nhập hạn và Chính diệu nhập hạn (nếu có)

+ Chính diệu nhập hạn và Bản Mệnh (nếu có)

-  Chính diệu nhập hạn chính tọa thủ Mệnh thuộc cùng nhóm hay khác nhóm

-  Sự tốt xấu của các sao hội hợp nhập hạn

-  Đặc biệt chú ý đến Sát tinh Bại tinh (nếu có)

1.2.   Kết hợp nhận định

-  Quan sát vận hạn, nếu thấy nhiều sự tương sinh tốt đẹp. Trái lại, nhiều sự tương khắc xấu xa. Thuận lý: cung nhập hạn sinh Chính diệu nhập hạn, Chính diệu nhập hạn lại sinh Bản Mệnh.

-   Tại cung nhập hạn, trong số những sao hội hợp nếu quá nửa tốt đẹp được coi hạn tốt.

Trái lại nếu quá nửa xấu xa, phải coi là hạn xấu.

-  Nhận xét vị trí và ảnh hưởng tốt xấu của những sao lưu động, đặc biệt chú ý lưu Thái Tuế.

-   Cân nhắc sự tốt xấu của đại hạn mười năm, lưu đại hạn một năm, lưu niên tiểu hạn một năm ảnh hưởng của những sao lưu động.

-   Vận hạn ở cung nào phải đặc biệt chú ý đến những sự hay dở và những việc xảy ra trong phạm vi cung đó.

Thí dụ: Vận hạn ở cung Quan Lộc, tất trong khoảng mười năm hay một năm (tùy theo đại hạn mười năm hay lưu niên tiểu hạn một năm) thường có nhiều việc xảy đến, liên quan tới công danh sự nghiệp.

-   Kết hợp tính chất của những sao hội hợp nhập hạn để luận đoán những sự may mắn, tốt lành hay không tai ương họa hại. Muốn rộng đường luận đoán, đồng thời đi sâu vào chi tiết của vận hạn, nên hỏi: “Thức ăn, thức uống, vật dụng và cơ thể, biểu tượng bằng các sao”. Sự kết hợp này chỉ nên áp dụng triệt để đặc biệt trong lưu niên tiểu hạn.

-  Luận đoán rất cẩn thận, trước hết cung Phúc Đức sau đến Mệnh, Thân, để cân nhắc họa phúc. Sự tốt xấu của ba cung này thưởng làm tăng hay giảm những sự đáng mừng hay đáng lo trong vận hạn.