4.  NHẬN ĐỊNH KHÁI QUÁT VỀ CUNG MỆNH VÀ CUNG THÂN

4.10. Các nhận định

4.10.10.  Thứ nhất

Từ lúc lọt lòng mẹ cho đến năm 30 tuổi, phải căn cứ vào cung Mệnh để xem xét một sự tốt xấu và luận đoán vận hạn

Từ 30 tuổi trở đi, phải căn cứ vào cung Thân nhưng sao, cũng vẫn phải chú ý đến cung Mệnh.

4.10.2.  Thứ hai

Dương Dương vị (năm sinh thuộc Âm, cung an Mệnh cũng thuộc Âm) như vậy thuận độ số gia tăng.

Dương Âm vị (năm sinh thuộc Dương, cung Mệnh thuộc Âm hay Âm Dương vị: năm sinh thuộc Âm, cung Mệnh thuộc Dương) như vậy là nghịch lý, độ số giảm thiểu.

4.10.3.  Thứ ba

Nhận định cung Mệnh Sinh địa, Vượng địa, Bại địa, hay Tuyệt địa. Phải căn cứ vào Bản  Mệnh và coi bảng dưới đây:

 

Bản Mệnh

Sinh địa

Vượng địa

Bại địa

Tuyệt địa

Kim

Tỵ

Dậu

Ngọ

Dần

Mộc

Hợi

Mão

Thân

Hỏa

Dần

Ngọ

Mão

Hợi

Thủy - Thổ

Thân

Dậu

Tỵ

Thí dụ: Kim Mệnh, cung Mệnh an tại Tỵ Sinh địa, rất tốt. Mộc Mệnh, cung Mệnh an tại Mão là Vượng địa, được nhiều lợi ích. Hỏa Mệnh, cung Mệnh an tại Mão là Bại địa, rất xấu. Thủy Mệnh hay Thổ Mệnh, cung Mệnh an tại Tỵ là Tuyệt địa là rất đáng lo ngại.

-  Cung Mệnh là Bại địa dù có gặp vận hạn tốt đẹp cũng chẳng được lâu bền, ví như cành hoa mong manh, sớm nở tối tàn.

-   Cung Mệnh là Tuyệt địa, rất cần phải có Chính diệu sáng sủa tốt đẹp tọa thủ hay Khoa, Quyền, Lộc hội hợp để cứu giải. Nếu không rất đáng lo ngại. Chính diệu cứu giải lại phải là Chính diệu sinh được Bản Mệnh.

Thí dụ: Thủy Mệnh, cung Mệnh an tại Tỵ là tuyệt địa, vậy cần phải có Vũ Khúc tọa thủ để cứu giải vì Vũ Khúc thuộc Kim, sinh được Thủy Mệnh.

-   Cung Mệnh là tuyệt địa, có Chính diệu sinh được Bản Mệnh tọa thủ để cứu giải, gọi là tuyệt xứ phùng sinh, cũng ví như cành hoa tuy mong manh nhưng lâu tàn. Vậy cho nên cũng chẳng đáng lo ngại nhiều.

+ Đàn ông sinh năm Ngọ, Mùi, cung Mệnh an tại Tý, Sửu: suốt đời vất vả, chẳng mấy khi

được xứng ý toại lòng.

+ Đàn bà, cung Mệnh an Tứ Mộ: đảm đang, khôn ngoan. Cung Mệnh an tại Dậu: ra ngoài

được nhiều người yêu mến vị nể. Cung Mệnh an tại Tý, Ngọ: suốt đời an nhàn.

-  Cung Mệnh sinh được Chính diệu tọa thủ, Chính diệu tọa thủ lại sinh được Bản Mệnh, như vậy là thuận lý, độ số gia tăng.

Thí dụ: Cung Mệnh an tại Mão, thuộc Mộc, Thái Dương thuộc Hỏa tọa thủ, Bản Mệnh lại thuộc Thổ. Như vậy thuận lý, cung Mộc sinh được Chính diệu thuộc Hỏa. Chính diệu thuộc Hỏa lại sinh được Thổ Mệnh. Đây, chắc chắn độ số gia tăng.

-   Chính diệu thủ Mệnh sinh cung Mệnh hay Bản Mệnh sinh Chính diệu thủ Mệnh: như vậy nghịch lý, độ số giảm thiểu.

-   Cung Mệnh khắc Chính diệu tọa thủ, hay Chính diệu thủ Mệnh khắc Bản Mệnh: như vậy cũng là nghịch lý thì độ số cũng giảm thiểu, nhưng đáng lo ngại hơn trường hợp trên.

-   Cung Mệnh nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp gặp nhiều Sát tinh hay Bại tinh xâm phạm, tuy cũng được hưởng phú qúy, nhưng thăng giáng thất thường hay phải lao tâm khổ tứ.

-  Cung Mệnh không có Chính diệu tọa thủ gọi Mệnh vô Chính diệu.

+ Người có Mệnh vô Chính diệu rất khôn ngoan sắc sảo và thường là con vợ lẽ hay con nàng hầu. Nếu là con vợ cả, tất hay đau yếu, sức khỏe rất suy kém. Không những thế, lúc thiếu thời lại rất vất vả, thường lang thang phiêu bạt, vô sở, bất chi.

+ Mệnh vô Chính diệu rất cần có Tuần, Triệt án ngữ và Thiên Không Địa Không hội hợp. Nếu không phải có nhiều Chính diệu sáng sủa, tốt đẹp hội chiếu và nhiều trung tinh rực rỡ quần tụ. Như thế mới mong sống lâu được.

+ Mệnh vô Chính diệu mà không gặp sự cứu giải của các sao như đã kể trên, thật đáng lo ngại. Đây, muốn tăng tuổi thọ, tất phải làm con nuôi họ khác, hay phải rời gia đình.

-  Cung Mệnh và cung Thân đều sáng sủa tốt đẹp: độ số gia tăng. Chắc chắn là suốt đời được xứng với ý toại lòng.

-  Cung Mệnh sáng sủa tốt đẹp, cung Thân mờ ám xấu xa: lúc thiếu thời sung sướng. Nhưng đến lúc đứng tuổi, về già lại chẳng mấy khi được toại ý.

-  Cung Mệnh mờ ám xấu xa, cung Thân sáng sủa tốt đẹp: lúc thiếu thời thường phải lao tâm khổ tứ. Nhưng đến lúc đứng tuổi, về già lại sung sướng.

-  Cung Mệnh có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhưng cung Thân lại có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hơn hội hợp. Như vậy gọi là Mệnh nhược Thân cường: suốt đời cũng được xứng ý toại lòng, nhưng không thể giàu có lớn được.

-  Cung Mệnh và cung Thân đồng nhất gọi là Mệnh Thân đồng cung.

+ Tại Tứ Mộ, Chính diệu: cùng khổ giảm thọ. Đây rất cần phải Tuần, Triệt án ngữ, hay nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp cứu giải. Như vậy cũng đỡ lo ngại, suốt đời cũng được no cơm ấm áo.

+ Tại Tý, Ngọ, vô Chính diệu, nếu có nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp: cùng khổ hay chết non: cũng ví như đóa hoa mới nở đã bị mưa gió vùi dập phủ phàng. Đây, nếu có Hóa Lộc tọa thủ thì giàu nhưng giảm thọ. Trái lại, nếu không có Hóa Lộc tọa thủ thì nghèo mà sống lâu.

-   Cung Mệnh có Tuần án ngữ, cung Thân có Triệt án ngữ gọi là Mệnh Tuần, Thân Triệt. Cung Mệnh hay cung Thân rất cần phải có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa tốt đẹp hội hợp. Có như thế, suốt đời mới được xứng ý toại lòng. Nhất là khi về già mới có danh giá và được an nhàn.

-   Cung Mệnh có Triệt án ngữ, cung Thân có Tuần án ngữ, gọi là Mệnh Triệt, Thân Tuần. Cung Mệnh và cung Thân rất cần phải có vô Chính diệu. Có như thế, suốt đời mới được xứng ý toại lòng, được tăng thêm tuổi thọ, về già lại được sung sướng.

-   Cung Mệnh có Địa Không tọa thủ, cung Thân có Địa Kiếp tọa thủ gọi là Mệnh Không, Thân Kiếp. Người có Mệnh Không, Thân Kiếp rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít, buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Song Hao hội hợp, là người tuy ít học, nhưng cũng lập được công danh, sự nghiệp khá hiển hách. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân tọa thủ, thật không sống lâu được.

-  Cung Mệnh có Địa Kiếp tọa thủ, cung Thân có Địa Không tọa thủ gọi là Mệnh Kiếp Thân Không. Người có Mệnh Kiếp Thân Không rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, mưu sự thì thành bại bất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Hồng, Đào, Sát tinh hội hợp, tất phải chết non. Nếu không, lúc thiếu thời vất vả, gian truân. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Nhật, Nguyệt hay Tử Vi sáng sủa tọa thủ thì cũng được no cơm ấm áo.

-  Thân Thiên Di

+ Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp: lập nghiệp phương xa, rất thịnh vượng.

+ Tuần, Triệt án ngữ: hay có nhiều Sát tinh hội hợp: chết ở xa nhà

-  Thân Thê Thiếp (hay Phu Quân)

+ Nguyệt tọa thủ: sợ vợ, thường phải nhờ vả nhà vợ.

+ Tuần, Triệt án ngữ: trắc trở về hôn phối, buôn thương vị tình.

-  Thân Tài Bạch:

+ Tọa thủ: hay Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa tốt đẹp hội hợp: hay Sát, Phá, Liêm, Tham sáng sủa tốt đẹp hội hợp: có danh giá trước, có tiền tài sau.

+ Song Hao, Quyền, Lộc, Kiếp, Hỏa hội hợp: buôn bán trở nên giàu có. Đây, nếu  thêm Phục, Kinh hội hợp: không nên buôn bông vải và phải luôn luôn đề phòng hỏa hoại.

+ Lưu Kiếp hội hợp: nếu kiếm ăn bằng nghề đánh cá hay buôn bán qua lại sông nước, thật không thể tránh được thủy nạn.

-  Thân Quan Lộc

+ Tuần, Triệt án ngữ, Kiếp, Hóa Kỵ hội hợp: đàn ông muộn đường công danh. Nếu có thêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, cũng phải ngoài 40 tuổi mới nhẹ bước thang mây.

+ Tuần, Triệt án ngữ, nhiều Sát tinh hội hợp: đàn bà khó giữ được toàn danh tiết. Nếu có Tang, Hổ hội hợp, tất phải góa bụa cô đơn. Đây, nếu không muộn đường chồng con, hay nếu không chịu lấy kế, lấy lẽ, thật không thể tránh được mấy độ buồn thương.

-  Thân Phúc Đức

+ Sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Tránh được nhiều tai họa.

+ Mờ ám xấu xa: khó tránh được tai họa. Giảm thọ, dù cung Mệnh có sáng sủa tốt đẹp chăng  nữa, cũng không thể sống lâu được.