Từ
lúc lọt
lòng mẹ
cho đến
năm 30
tuổi, phải
căn cứ
vào cung
Mệnh để
xem xét
một sự
tốt xấu
và luận đoán vận hạn
Từ
30
tuổi
trở
đi,
phải
căn
cứ
vào
cung
Thân
nhưng
dù
sao,
cũng
vẫn
phải
chú
ý
đến
cung
Mệnh.
Dương
cư Dương
vị (năm
sinh thuộc
Âm, cung
an Mệnh
cũng thuộc
Âm) như
vậy là
thuận lý
độ số gia tăng.
Dương
cư Âm
vị (năm
sinh thuộc
Dương, cung
Mệnh thuộc
Âm hay
Âm cư
Dương vị:
năm sinh
thuộc Âm, cung
Mệnh thuộc Dương) như vậy
là nghịch lý, độ số
giảm thiểu.
Nhận
định cung
Mệnh là
Sinh địa,
Vượng địa,
Bại địa,
hay Tuyệt
địa. Phải
căn cứ
vào Bản
Mệnh
và coi bảng dưới đây:
Bản
Mệnh |
Sinh
địa |
Vượng
địa |
Bại
địa |
Tuyệt
địa |
Kim |
Tỵ |
Dậu |
Ngọ |
Dần |
Mộc |
Hợi |
Mão |
Tý |
Thân |
Hỏa |
Dần |
Ngọ |
Mão |
Hợi |
Thủy
- Thổ |
Thân |
Tý |
Dậu |
Tỵ |
Thí
dụ: Kim
Mệnh, cung
Mệnh an
tại Tỵ
là Sinh
địa, rất
tốt. Mộc
Mệnh, cung
Mệnh
an tại Mão là Vượng địa, được
nhiều lợi ích. Hỏa Mệnh, cung Mệnh an tại Mão là
Bại địa, rất xấu. Thủy Mệnh hay Thổ Mệnh, cung Mệnh an tại Tỵ là Tuyệt
địa là rất đáng lo ngại.
-
Cung Mệnh là Bại
địa dù có gặp vận hạn tốt đẹp cũng chẳng được lâu bền, ví như cành hoa
mong manh,
sớm nở tối tàn.
-
Cung Mệnh là Tuyệt
địa, rất cần phải có Chính diệu sáng sủa tốt đẹp tọa thủ hay Khoa,
Quyền, Lộc hội hợp để cứu giải. Nếu không rất đáng lo ngại. Chính diệu
cứu giải lại phải là Chính diệu
sinh được Bản Mệnh.
Thí dụ: Thủy Mệnh,
cung Mệnh an tại Tỵ là tuyệt địa, vậy cần phải có Vũ Khúc tọa
thủ để
cứu giải vì Vũ Khúc thuộc
Kim, sinh được Thủy Mệnh.
-
Cung Mệnh là tuyệt
địa, có Chính diệu sinh được Bản Mệnh tọa thủ để cứu giải, gọi là
tuyệt xứ phùng sinh, cũng ví như cành hoa tuy mong manh nhưng lâu tàn.
Vậy cho nên cũng chẳng đáng
lo ngại nhiều.
+
Đàn ông
sinh năm
Ngọ, Mùi,
cung Mệnh
an tại
Tý, Sửu:
suốt đời
vất vả,
chẳng mấy
khi
được
xứng ý
toại lòng.
+
Đàn bà,
cung Mệnh
an Tứ
Mộ: đảm
đang, khôn
ngoan. Cung
Mệnh an
tại Dậu:
ra ngoài
được
nhiều người
yêu mến
vị nể. Cung
Mệnh an tại Tý,
Ngọ: suốt đời
an nhàn.
-
Cung Mệnh sinh được
Chính diệu tọa thủ, Chính diệu tọa thủ lại sinh được Bản Mệnh, như
vậy là thuận lý, độ số gia
tăng.
Thí
dụ:
Cung
Mệnh
an
tại
Mão,
thuộc
Mộc,
có
Thái
Dương
thuộc
Hỏa
tọa
thủ,
Bản
Mệnh
lại
thuộc
Thổ.
Như
vậy
là
thuận
lý,
vì
cung
Mộc
sinh
được
Chính
diệu
thuộc
Hỏa.
Chính
diệu
thuộc
Hỏa
lại
sinh
được
Thổ
Mệnh.
Đây,
chắc
chắn
là
độ
số
gia
tăng.
-
Chính
diệu thủ
Mệnh sinh
cung Mệnh
hay Bản
Mệnh sinh
Chính diệu
thủ Mệnh:
như vậy
là nghịch lý,
độ số giảm thiểu.
-
Cung
Mệnh khắc
Chính diệu
tọa thủ,
hay Chính
diệu thủ
Mệnh khắc
Bản Mệnh:
như vậy
cũng là nghịch lý
thì độ số cũng giảm thiểu, nhưng
đáng lo ngại hơn trường
hợp trên.
-
Cung
Mệnh có
nhiều sao
sáng sủa
tốt đẹp
hội hợp
gặp nhiều
Sát tinh
hay Bại
tinh xâm
phạm, tuy cũng
được hưởng phú qúy,
nhưng thăng giáng
thất thường và
hay phải lao tâm khổ
tứ.
-
Cung
Mệnh không có Chính diệu
tọa thủ gọi là
Mệnh vô Chính diệu.
+ Người có Mệnh vô
Chính diệu rất khôn ngoan sắc sảo và thường là
con vợ lẽ hay con nàng hầu.
Nếu là con vợ cả, tất hay đau yếu, sức khỏe rất suy kém. Không những thế, lúc
thiếu thời lại
rất vất vả, thường lang
thang phiêu bạt, vô sở, bất
chi.
+ Mệnh vô Chính
diệu rất cần có Tuần, Triệt án ngữ và Thiên Không Địa Không hội hợp.
Nếu không phải có nhiều Chính diệu sáng sủa, tốt đẹp hội chiếu và nhiều
trung tinh rực rỡ quần tụ. Như
thế mới mong
sống lâu được.
+ Mệnh vô Chính
diệu mà không gặp sự cứu giải của các sao như đã kể trên, thật đáng lo
ngại. Đây, muốn tăng
tuổi thọ, tất phải làm con
nuôi họ khác, hay phải rời
gia đình.
-
Cung Mệnh và cung
Thân đều sáng sủa tốt đẹp: độ số gia tăng. Chắc chắn là suốt đời được
xứng với
ý toại lòng.
-
Cung
Mệnh sáng
sủa tốt
đẹp, cung
Thân mờ
ám xấu
xa: lúc
thiếu thời
sung sướng.
Nhưng
đến
lúc đứng
tuổi, về
già lại chẳng
mấy khi
được toại ý.
-
Cung Mệnh mờ ám xấu
xa, cung Thân sáng sủa tốt đẹp: lúc thiếu thời thường phải lao tâm
khổ tứ. Nhưng
đến lúc đứng
tuổi, về già lại sung sướng.
-
Cung Mệnh có nhiều
sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhưng cung Thân lại có nhiều sao sáng
sủa tốt đẹp hơn hội hợp. Như vậy gọi là Mệnh nhược Thân cường: suốt đời
cũng được xứng ý toại lòng,
nhưng không
thể giàu có lớn được.
-
Cung
Mệnh và cung
Thân đồng
nhất gọi là
Mệnh Thân đồng
cung.
+
Tại
Tứ
Mộ,
vô
Chính
diệu:
cùng
khổ
và
giảm
thọ.
Đây
rất
cần
phải
có
Tuần,
Triệt
án
ngữ,
hay
nhiều
sao
sáng
sủa
tốt
đẹp
hội
hợp
cứu
giải.
Như
vậy
cũng
đỡ
lo
ngại,
suốt
đời
cũng
được
no
cơm
ấm
áo.
+ Tại Tý, Ngọ, vô
Chính diệu, nếu có nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp: cùng khổ hay chết
non: cũng ví như đóa hoa mới nở đã bị mưa gió vùi dập phủ phàng. Đây, nếu
có Hóa Lộc tọa thủ thì giàu
nhưng giảm thọ. Trái lại,
nếu không có Hóa
Lộc tọa thủ thì nghèo
mà sống lâu.
-
Cung Mệnh có Tuần
án ngữ, cung Thân có Triệt án ngữ gọi là Mệnh Tuần, Thân Triệt.
Cung Mệnh hay cung Thân rất cần phải có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa
tốt đẹp hội hợp. Có như
thế, suốt đời mới được xứng ý
toại lòng. Nhất là khi về
già mới có danh giá và
được an nhàn.
-
Cung Mệnh có Triệt
án ngữ, cung Thân có Tuần án ngữ, gọi là Mệnh Triệt, Thân Tuần.
Cung Mệnh và cung Thân rất cần phải có vô Chính diệu. Có như thế, suốt
đời mới được xứng ý toại lòng,
được tăng thêm tuổi thọ, về
già lại được sung
sướng.
-
Cung Mệnh có Địa
Không tọa thủ, cung Thân có Địa Kiếp tọa thủ gọi là Mệnh Không,
Thân Kiếp. Người có Mệnh
Không, Thân Kiếp rất khôn ngoan sắc
sảo. Nhưng trong đời vui ít,
buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường: làm việc gì
cũng chẳng được lâu bền. Nếu
cung Mệnh vô Chính diệu lại có Song
Hao hội hợp, là người tuy ít học, nhưng cũng lập được công danh,
sự nghiệp khá hiển hách. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay
cung Thân lại có Thiên Đồng,
Thiên Lương
hay Phá
Quân tọa thủ, thật không
sống lâu
được.
-
Cung Mệnh có Địa
Kiếp tọa thủ, cung Thân có Địa Không tọa thủ gọi là Mệnh Kiếp Thân
Không. Người có Mệnh Kiếp Thân Không rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong
đời vui ít buồn nhiều, mưu sự thì
thành bại bất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Nếu cung Mệnh vô
Chính diệu lại có Hồng, Đào, Sát tinh hội hợp, tất phải chết non. Nếu
không, lúc thiếu thời vất vả, gian
truân. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Nhật,
Nguyệt hay Tử Vi
sáng sủa tọa thủ thì cũng
được no cơm ấm áo.
-
Thân
cư Thiên
Di
+
Nhiều sao
sáng sủa
tốt đẹp
hội hợp: lập
nghiệp ở
phương xa,
rất thịnh vượng.
+
Tuần, Triệt án ngữ: hay
có nhiều Sát tinh hội
hợp: chết ở xa nhà
-
Thân
cư Thê
Thiếp (hay Phu
Quân)
+
Nguyệt tọa thủ:
sợ vợ, thường
phải nhờ
vả nhà
vợ.
+
Tuần, Triệt
án ngữ:
trắc trở về
hôn phối, buôn thương
vị tình.
-
Thân
cư Tài
Bạch:
+
Tọa thủ:
hay có
Cơ, Nguyệt,
Đồng, Lương
sáng sủa
tốt đẹp
hội hợp:
hay có
Sát, Phá,
Liêm, Tham sáng
sủa tốt
đẹp hội hợp: có danh
giá trước, có
tiền tài sau.
+
Song Hao,
Quyền, Lộc,
Kiếp, Hỏa
hội hợp:
buôn bán
mà trở
nên giàu
có. Đây,
nếu có
thêm
Phục, Kinh hội hợp: không
nên buôn bông vải và phải
luôn luôn đề phòng
hỏa hoại.
+ Lưu Kiếp hội hợp:
nếu kiếm ăn bằng nghề đánh cá hay buôn bán qua lại sông nước, thật
không thể
tránh được thủy
nạn.
-
Thân
cư Quan Lộc
+ Tuần, Triệt án
ngữ, Kiếp, Hóa Kỵ hội hợp: đàn ông muộn đường công danh. Nếu có thêm
nhiều sao
sáng sủa tốt đẹp hội hợp,
cũng phải ngoài 40 tuổi mới nhẹ
bước thang mây.
+ Tuần, Triệt án
ngữ, nhiều Sát tinh hội hợp: đàn bà khó giữ được toàn danh tiết. Nếu có
Tang, Hổ hội hợp, tất phải góa bụa cô đơn. Đây, nếu không muộn đường
chồng con, hay nếu không chịu lấy
kế, lấy lẽ, thật không
thể tránh
được mấy độ buồn thương.
-
Thân
cư Phúc Đức
+
Sáng sủa
tốt đẹp: được hưởng
phúc sống
lâu. Tránh được nhiều
tai họa.
+ Mờ ám xấu xa: khó
tránh được tai họa. Giảm thọ, dù cung Mệnh có sáng sủa tốt đẹp chăng
nữa,
cũng không
thể sống
lâu được.