Cung
Mệnh hay cung Điền
Tài có
Tướng sáng
sủa tốt
đẹp tọa
thủ, có
Lương giáp
cung (Ấm
tinh là tên riêng
của Thiên Lương cũng
như Thiên
Ấn là tên riêng
của Thiên Tướng).
Cung
Thân có
Phủ, Tướng
hợp chiếu.
Cung
Mệnh hay cung
Điền, Tài an tại Ngọ,
có Nhật tọa thủ.
Cung
Mệnh
hay
cung
Điền,
Tài
an
tại
Sửu
có
Tham,
Vũ
tọa
thủ
đồng
cung.
Hay
tại
Mùi
có
Phủ
tọa
thủ,
có
Nhật,
Nguyệt
giáp
cung.
(Tài
tinh
là
tên
riêng
của
Vũ
Khúc
vì
Vũ
Khúc
chủ
tiền
bạc).
Cung Mệnh
hay cung Điền,
Tài an
tại Sửu,
có Nhật,
Nguyệt tọa
thủ đồng
cung tại Mùi
xung chiếu:
hay an tại Mùi
có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng
cung tại Sửu xung
chiếu.
Cung
Mệnh hay
cung Điền,
Tài có Vũ
tọa thủ, có
Vũ, Lộc
giáp cung.
Tử
sáng sủa
tốt đẹp
tọa thủ
tại cung
Mệnh, hay
Quan Lộc
có Tả,
Hữu, Thiếu
Dương, Thiếu
Âm giáp
cung, nên ví như xe vàng
phò vua
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Tử
sáng sủa
tốt đẹp
tọa thủ
và có
Phủ chiếu,
hay có
Phủ sáng
sủa tốt đẹp tọa thủ và có
Tử chiếu.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc có
Tử sáng
sủa tốt đẹp
tọa thủ có Phụ
- Bật hợp
chiếu.
Cùng
như trên,
nhưng có
thêm đủ
bộ Xương,
Khúc, Khôi,
Việt, Long, Phượng
hội hợp.
Cung
Mệnh hay Quan
Lộc có
Phủ sáng
sủa tốt
đẹp tọa
thủ và
có Tướng
chiếu hay có
Tướng sáng
sủa tốt đẹp tọa thủ và có Phủ chiếu.
Vũ
thủ Mệnh
tại Mão.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
an tại Mão,
Dậu, có Cự,
Cư tọa thủ
đồng cung.
Cung
Mệnh
hay
Quan
Lộc
an
tại
Dần,
Thân
có
Sát
tọa
thủ
và
có
Tử,
Phủ
(đồng
cung)
xung
chiếu.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
an tại Tứ
Mộ, có Tham
tọa thủ
gặp Hỏa
đồng cung.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
an tại
Mão, có Nhật
tọa thủ.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
an tại
Hợi có
Nguyệt tọa
thủ (Hợi
thuộc quẻ
Kiền là
biểu tượng
của Trời nên
gọi là Thiên Môn).
Coi
Qúy cục 19.2.13. dưới đây.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
an tại
Tý, có
Nguyệt tọa
thủ (Tý
thuộc que
Khảm là
biểu tượng
của nước,
của biển cá, nên gọi là Thương
hải).
Cung
Mệnh hay Quan
Lộc an
tại Sửu,
có Nhật
tọa thủ
tại Tý
và Nguyệt
tọa thủ
tại Hợi
xung chiếu
hay an tại Mùi
có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng
cung tại Sửu xung
chiếu.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
an tại
Sửu có
Nhật tọa
thủ tại
Tý và
Nguyệt tọa
thủ tại
Hợi hợp
chiếu hay
an tại Mùi
có Nhật tọa
thủ tại Mão và
Nguyệt tọa thủ tại
Hợi hợp chiếu.
Coi
Phú cục 19.1.4 nhưng
đây là
có danh chức quyền qúy
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Tướng
sáng sủa
tốt đẹp tọa
thủ, có
Lộc, Mã
giáp cung.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Ấn
tọa thủ,
có Hình,
Liêm giáp
cung (Hình
là tên
riêng của
Kình Dương,
cũng như
Tù là tên riêng của
Liêm Trinh).
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
an tại
Ngọ, có
Kình tọa
thủ, có
Hình, Mã
hợp chiếu,
nên ví
như đầu
ngựa có mang thanh
kiếm.
Cung
Mệnh
hay
Quan
Lộc
an
tại
Tứ
Mộ,
có
Kình
tọa
thủ.
Tốt
đẹp
đối
với
tuổi
Thìn,
Tuất,
Sửu,
Mùi.
Cung
Mệnh
hay
Quan
Lộc
có
Khôi
tọa
thủ
và
có
Việt
chiếu,
hay
có
Việt
tọa
thủ
và
có
Khôi
chiếu.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Xương
tọa thủ
và có
Khúc chiếu,
hay có
Khúc tọa
thủ và
có Xương
chiếu. Nếu gặp thêm Khôi,
Việt, Tuế hội hợp lại càng
rực rõ
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Khoa,
Quyển, Lộc hội
chiếu
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Quyền,
Lộc, Sinh
tọa thủ
đồng cung.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Khoa
tọa thủ
và có
Lộc nhị
hợp hay
có Lộc
tọa thủ
và có
Khoa nhị hợp.
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Hóa
Lộc tọa
thủ và
có Lộc
Tồn nhị
hợp, hay
có Lộc
Tồn tọa
thủ và có Hóa
Lộc nhị hợp
Cung
Mệnh hay
Quan Lộc
có Lộc
tọa thủ,
có Vũ,
Tướng giáp
cung
Liêm
thủ Mệnh
tại Dần
Thân gặp
Tuần, Triệt
án ngữ
Phá
thủ Mệnh tại Dần,
Thân gặp nhiều Sát
tinh mờ ám xấu
xa xâm phạm.
Vũ
hay Liêm
mờ ám xấu xa thủ
Mệnh, gặp nhiều Sát
tinh xâm phạm.
Nhật,
Nguyệt mờ
ám xấu
xa thủ Mệnh,
chiếu Mệnh
hay giáp Mệnh.
Mệnh
có nhiều Sát tinh mờ ám xấu
xa hội hợp.
Lộc Tồn hay
Hóa Lộc
thù Mệnh,
gặp Không,
Kiếp đồng
cung.
Coi
Bần tiện cục 19.3.6. ở trên.
Mã
thủ Mệnh
gặp Tuần,
Triệt án
ngữ.
Cung
Mệnh, Thân sáng sủa tốt đẹp,
vận hạn lại rực rỡ, nên
ví như gấm
thêu hoa.
Cung
Mệnh,
Thân
mờ
ám
xấu
xa,
nhưng
vận
hạn
lại
rất
tốt
đẹp
nên
ví
như
rồng
mây
gặp
hội.
Cung
Mệnh, Thân
xấu xa
mờ ám,
nhưng vận
hạn lại
tốt đẹp,
nên ví
như cây
khô gặp
mùa xuân, tuy
vậy, không được toàn mỹ
như Phong
Vân Tế Hội.
Lúc
ít tuổi
vất vả
lật đật
vì gặp
hạn xấu
xa, nhưng
về già
lại an
nhàn khá
giả vì
gặp hạn
tốt
đẹp,
vậy cho
nên thường ví như
mặc áo
gấm về
làng.
Hạn
một
năm
tốt
rồi
lại
một
năm
xấu,
không
đều
đặn,
nên
ví
như
bóng
sao
chập
chờn
trên
mặt
nước.
Cũng
như trên, nhưng
đôi khi cứ nửa năm hành thông
rồi lại nửa năm bế tắc.
Vận
hạn trước
sau, xấu
tốt không
rõ rệt,
may đi
liền với
rủi, kéo
dài liên
miên, nên
ví như
người ốm đi bộ lâu mà không
tìm thấy thầy
thuốc.
Hạn
gặp
Sát,
Lộc,
Mã
hội
hợp
và
Tam
Không
xâm
phạm,
Lộc,
Mã
bị
nguy
khốn
nên
coi
là
hạn
xấu.
-
Phú
cục và
Qúy cục
trình bày
sơ lược
ở trên
rất cần
phải xa
lánh Tuần,
Triệt, Sát
tinh và
Bại
tinh. Ngoại
trừ Qúy
cục 19.2.9
- 19.2.16
- 19.2.22
gặp Sát
tinh cũng không bị
chiết giảm
mất sự
tốt đẹp. Nếu Sát
tinh sáng sủa,
dĩ nhiên lại càng
thêm rực rỡ.
-
Phú
cục và
Qúy cục
rất cần
gặp Khoa,
Quyền, Lộc
hội hợp,
như vậy
mới được
toàn mỹ.
-
Bần
tiện
cục
trình
bày
sơ
lược
ở
trên,
nếu
gặp
Tuần,
Triệt
án
ngữ
(không
kể
Bần
Tiện
Cục
19.3.1
-
19.3.3)
cũng
đỡ
xấu
xa,
và
nếu
gặp
chêm
nhiều
sao
sáng
sủa
tốt
đẹp,
chắc
chắn
là
trở
lại
tốt
đẹp.